I. Ý nghĩa của 3 chi phí trên là:
1. Chi phí bảo lãnh thực hiện HĐ:
- Ngân hàng đứng ra bảo lãnh số tiền này cho nhà thầu (thường là 10% giá trị hợp đồng): để nếu nhà thầu không thực hiện hợp đồng thì Chủ đầu tư sẽ nhận được số tiền này từ ngân hàng mà không cần giải thích lý do gì cả.Muốn Ngân hàng đứng ra bảo lãnh, Nhà thầu phải thế chấp tài sản giá trị tương đương, hoặc ký quỹ (nộp tiền mặt)... Nói chung là cách nào đó để Ngân hàng nắm đằng cán. Và để thực hiện dịch vụ này, Nhà thầu phải trả phí cho ngân hàng.
2. Chi phí bảo lãnh tiền tạm ứng:
- Để đề phòng Nhà thầu tạm ứng xong xù độ không thi công, nên phải thực hiện nộp bảo lãnh tiền tạm ứng với giá trị bằng tiền tạm ứng. Giống như trên, Muốn Ngân hàng đứng ra bảo lãnh, Nhà thầu phải thế chấp tài sản giá trị tương đương, hoặc ký quỹ (nộp tiền mặt)... Nói chung là cách nào đó để Ngân hàng nắm đằng cán. Và để thực hiện dịch vụ này, Nhà thầu phải trả phí cho ngân hàng.
3. Chi phí bảo hiểm trách nhiệm đối với bên thứ 3 thuộc nghĩa vụ của nhà thầu:
Quá trình thi công sẽ có thể xảy ra rủi ro cho bên thứ 3, theo luật Nhà thầu phải mua bảo hiểm cho đối tượng này. Muốn mua thì mất chi phí cho bên bảo hiểm.
* ==> Như vậy, Nhà thầu đều mất chi phí cho 3 khoản trên. Đã mất thì phải tính vào giá thành. Giá thành tức giá dự thầu. Không tính vào đơn giá thì tính vào hạng mục chung đều như nhau. Nhà thầu dự thầu đã tính, đã trúng thầu, Hợp đồng đã ký, thì đương nhiên phải thanh toán.
Làm gì có cái ông nào có cái quyền vượt trên hiến pháp, đè trên luật pháp để trừ tiền vô duyên như bạn nêu.
* NĐ32 chỉ là quản lý chi phí tính cho CĐT. KHông liên quan đến thanh toán hợp đồng. Hợp đồng là luật dân sự. Hơn nữa NĐ32 nêu rõ phải tính đúng và tính đủ. Chủ đàu tư tính không đúng không đủ là chuyện của ổng. Trên đời làm gì có cái kiểu: người mua (CĐT) tính không đúng, không đủ rồi bắt người bán (nhà thầu) phải cấp hàng cho mình với cấu thành giá theo ý của mình dở hơi như vậy đâu.
|