Hỏi: Tôi xin hỏi Bộ Tài chính một số vấn đề sau:
1. Năm 2004 – Đơn vị có đăng ký phương pháp khấu hao TSCĐ với cơ quan thuế địa phương là khấu hao theo phương pháp đường thẳng theo mẫu do cơ quan thuế cấp.
- Đến cuối năm: Đơn vị làm ăn có lãi nên kế toán đã trích khấu hao nhanh là 140.000.000 cho các loại TSCĐ được phép trích khấu hao nhanh. (Số khấu hao nhanh này đơn vị không đăng ký với cơ quan thuế đầu năm). Hỏi số khấu hao nhanh này có được tính vào chi phí hợp lý để tính thuế thu nhập không?
2. Là công ty TNHH có kinh doanh trong lĩnh vực XDCB, phần nhân công các công trình đơn vị đều phải thuê ngoài. Trong việc thuê nhân công có gặp khó khăn như thời vụ, địa điểm thi công, mức độ phức tạp công việc... Nên trong năm đơn vị có thuê ngoài phần nhân công lớn hơn định mức nhân công nhà nước là 279.000.000 để đảm bảo chất lượng công trình và tiến độ thi công (Doanh thu XDCB 2004 là 8 tỷ đồng các công trình hạch toán đều có lãi). Hỏi phần nhân công thuê ngoài vượt định mức 279.000.000 có được coi là chi phí hợp lý để tính thuế thu nhập không?
3. Trong năm 2004 do nhu cầu mở rộng sản xuất, quy hoạch các DN của Thành phố, đơn vị đã phải góp 70% số kinh phí giải phóng mặt bằng cho Nhà nước để phục vụ cho công tác giải phóng đền bù mặt bằng với số tiền là 600.000.000. Trong năm kế toán đơn vị đã phân bổ một phần số tiền đó (126.000.000) vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Hỏi 126 triệu tiền phân bổ chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng có được tính là chi phí hợp lý không?
4. Cuối năm 2003 Đơn vị có lập dự phòng giảm giá cho hàng tồn kho cho năm 2004, trong năm 2004 số hàng được lập dự phòng đó được tiêu thụ một phần, đơn vị đã hoàn nhập dự phòng cho số hàng tiêu thụ đó còn lại 11 triệu là số hàng hoá được lập dự phòng từ cuối năm 2003 chưa tiêu thụ được vẫn treo trên TK 159 – các khoản dự phòng. Hỏi 11 triệu hàng chưa bán được có phải hoàn nhập để tăng phần thu nhập chịu thuế không?
Trả lời:Về 4 nội dung Bạn hỏi, chúng tôi không được phép đi vào số liệu cụ thể mà trả lời theo nguyên tắc đã được pháp luật hiện hành quy định, cụ thể như sau:
1. Về trích khấu hao nhanh Theo quy định tại điểm 1.2, mục III, phần B Thông tư số 128/2003 ngày 22/12/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Luật thuế TNDN (sửa đổi); quy định tại khoản 2 Điều 13 của Chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ ban hành kèm theo Quyết định số 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính thì kể từ kỳ tính thuế TNDN năm 2004 trở đi các DN được thực hiện các quy định: - Được khấu hao nhanh tối đa không quá 2 lần mức khấu hao theo đường thẳng đối với các TSCĐ là máy móc thiết bị, dụng cụ đo lường, thí nghiệm, thiết bị và phương tiện vận tải, dụng cụ quản lý, suc vật, vườn cây lâu năm nếu DN thoả mãn các điều kiện: Áp dụng phương pháp khấu hao theo đường thẳng, làm ăn có hiệu quả kinh tế cao; khi tăng mức trích khấu hao vẫn đảm bảo kinh doanh có lãi. - DN tự đăng ký với cơ quan thuế về phương pháp khấu hao TSCĐ mà cơ sở áp dụng. Bộ Tài chính không có văn bản nào quy định DN bắt buộc phải đăng ký số khấu hao nhanh ngay từ đầu năm. - DN thực hiện chế độ tự khai, tự quyết toán thuế TNDN theo các mẫu tờ khai ban hành kèm theo Thông tư số 128/2004/TT-BTC ngày 27/12/2004 của Bộ Tài chính. Theo đó số khấu hao nhanh được trích theo quy định đương nhiên được tính vào chi phí hợp lý để tính thuế TNDN. 2. Về Chi phí nhân công thuê ngoài trong xây dựng cơ bản vượt định mức nhà nước Trước hết cần phải khẳng định nguyên tắc: Chi phí nhân công trong đơn giá công trình XDCB khác với chi phí tiền lương, tiền công trong chi phí hợp lý để xác định thu nhập chịu thuế. Cụ thể là: - Chi phí nhân công theo đơn giá nhà nước được dùng làm cơ sở để lập dự toán công trình XDCB. Trong nhiều trường hợp giá trúng đấu thầu cũng khác với giá dự toán công trình được lập ra theo đơn giá do nhà nước quy định. - Đối với các doanh nghiệp xây lắp, cơ quan thuế không quản lý chi phí nhân công theo dự toán mà thực hiện kiểm soát chi phí tiền lương, tiền công theo quy định của Bộ luật lao động và hướng dẫn về thuế TNDN. Trong việc thuê nhân công, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của DN, phương thức tổ chức thi công phù hợp mà tự quyết định phương án sử dụng lao động, mức tiền lương, tiền công trả cho người lao động căn cứ vào hợp đồng lao động hoặc thoả ước lao động tập thể. DN có thể trả tiền thuê lao động cao gấp nhiều lần chi phí nhân công tính theo dự toán đơn giá của Nhà nước trên cơ sở tiết giảm các chi phí trực tiếp hoặc gián tiếp khác, miễn là đảm bảo chất lượng, tiến độ công trình, kinh doanh có lãi. Các khoản chi trả về tiền lương, tiền công, tiền thuê lao động theo thời vụ hoặc vụ việc theo quy định của pháp luật về lao động thì đương nhiên được tính vào chi phí hợp lý để xác định thu nhập chịu thuế. 3. Về phân bổ chi phí đền bù giải phóng mặt bằng - Từ năm 2004, thực hiện quy định của Luật đất đai (2003), Nhà nước có chủ trương hỗ trợ cho các DN thuộc diện phải di dời theo quy hoạch sử dụng đất của địa phương, tối đa không quá 30% chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng để DN đến địa điểm kinh doanh mới hoặc mở rộng mặt bằng kinh doanh. Số còn lại, DN tự chịu trách nhiệm chi trả và được hạch toán vào chi phí SX kinh doanh theo phương thức trích khấu hao TSCĐ vô hình (đối với tiền sử dụng đất phải nộp nếu được giao đất có nộp tiền, chi phí đền bù, giải toả, san lấp mặt bằng, lệ phí trước bạ...) hoặc phân bổ dần vào chi phí kinh doanh (nếu DN thuê đất). - Trong trường hợp chính quyền địa phương trợ giúp DN về đất đai qua việc thực hiện giải toả, thu xếp mặt bằng và yêu cầu DN đóng 70% thì số tiền đó được coi như DN đã thực hiện việc đền bù, giải phóng mặt bằng và được phân bổ dần vào chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế tương tự như trường hợp đã nêu trên. 4. Xử lý khoản dự phòng giảm giá tồn kho Về nguyên tắc, khoản trích lập dự phòng giảm giá cho hàng tồn kho được tính trên cơ sở số lượng (khối lượng) hàng hoá, vật tư tồn kho vào thời điểm lập báo cáo quyết toán và dự báo giảm giá trong kỳ tới. Đối với dự phòng giảm giá cho hàng tồn kho cho năm 2004 đã được trích lập trong quyết toán năm 2003 thì trong năm 2004 phải xử lý hoàn nhập dự phòng (nếu không phát sinh việc giảm giá) hoặc xử lý kết chuyển theo thực tế giảm giá. Đến cuối năm 2004 nếu số hàng mua vào trong năm 2003 vẫn còn tồn kho, chuyển sang năm 2005 thì DN có thể thực hiện theo 1 trong 2 cách: - Hoàn nhập dự phòng năm 2004 số đã trích năm 2003 đối với hàng còn tồn lại, sau đó lại trích lập dự phòng khi lên quyết toán năm 2004 cho phù hợp với mặt bằng giá mới. - Chỉ điều chỉnh số chênh lệch dự phòng giảm giá hàng tồn kho nếu mức giá đang hạch toán trong dự phòng đã trích lập chưa xử lý có sự chênh lệch với mặt bằng giá mới. Cả 2 cách tính đều dẫn đến một số liệu chung là số dự phòng cần lập cho hàng hoá, vật tư thực tế tồn kho thời điểm quyết toán 31/12/2004./. Website-BTC
|