* Hệ số dự phòng cho khối lượng công việc phát sinh là 10%.
Riêng đối với trường hợp chỉ lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật thì hệ số dự phòng cho khối lượng công việc phát sinh Kps = 5%.
* Khi tính chi phí dự phòng do yếu tố trượt giá (GDP2) cần căn cứ vào độ dài thời gian thực hiện dự án, tiến độ phân bổ vốn, tình hình biến động giá trên thị trường trong thời gian thực hiện dự án và chỉ số giá xây dựng đối với từng loại công trình và khu vực xây dựng. ( có công thức tính kèm theo)
Trên đây là quy định. Tuy nhiên, câu hỏi bạn hàm ý là:
% dự phòng cho KL phát sinh tính thấp hơn quy định được không? (<10% với dự án, <5% với Báo cáo KTKT)
Trước hết cần rõ:
1. Một trong số Mục đích CĂN BẢN của việc tính Tổng mức đầu tư là: tại thời điểm hiện tại dự trù (1 cách khoa học)trước số tiền sẽ phải chi ra trong tương lai để hoàn thành dự án.
Chính vì dự trù số tiền sẽ phải chi ở tương lai nên chắc chắn thực tế sẽ có sai số, nhưng dự trù sao cho càng gần sát thực tế càng tốt. Nhưng biết thế nào là gần sát? Chỉ khi thực tế diễn ra, làm xong dự án thì mới trả lời được: "Tổng mức đầu tư đưa ra có sát với thực tế đã diễn ra hay không". Chính vì tính chất "võ đoán khoa học" có sai số này nên về NGUYÊN LÝ, chúng ta hoàn toàn có thể giảm % Hệ số dự phòng cho khối lượng công việc phát sinh.
2. Nhưng khi giảm sẽ nảy sinh 2 vấn đề:
- Khi thực hiện, sự phát sinh vượt khỏi % đã tính giảm và làm vượt tổng mức. Trong khi nếu ban đầu tính đúng quy định TT04 hướng dẫn (10% đ/v dự án hay 5% đối với BCKTKT) thì sẽ không vượt tổng mức. Vượt tổng mức thì rất nhiêu khê:
+ Đánh giá lại hiệu quả dự án: lỡ không đạt hiệu quả dự án dừng.
+ Phê duyệt điều chỉnh tổng mức và bổ sung nguồn vốn: lỡ lúc đó không xoay ra vốn thì sao => dự án dừng? (thực tế nhiều dự án bị rồi - CĐT không có tiền trả Nhà thầu, nên nhà thầu lời giả trên giấy, nhưng lỗ thật vì chờ thanh toán phần phát sinh mỏi mòn, trong khi phải trả lãi vay ngân hàng số tiền đã bỏ ra thi công).
Lúc đó, người ta sẽ quy lại trách nhiệm cái ông đã giảm % chi phí dự phòng xuống. Nếu tính đúng thì bây giờ dự án đâu lâm vào tình trạng bi đát này.
- Nếu tính dự phòng KL phát sinh đúng tỷ lệ quy định, thì nó rơi vào dự án nhóm A. Vì dự án nhóm A nên cấp duyệt dự án liên quan đến Bộ ngành, Chính Phủ chứ không chỉ Người có thẩm quyền QĐ đầu tư tự quyết được. Lúc này, người ta hạ thấp tỷ lệ % dự phòng KL phát sinh xuống nhằm giảm Tổng mức đầu tư xuống ngưỡng để rơi vào dự án nhóm B. Nhưng khi thực hiện, phát sinh tăng tổng mức (trở lại nhóm A như ban đầu), thì Người có thẩm quyền QĐ đầu tư vẫn tự quyết được. Vậy ở đây ta thấy rõ ràng họ lách luật để tránh dự án nhóm A xuống thành dự án nhóm B để tránh duyệt dự án lằng nhằng. Thực tế nhiều dự án bị thanh tra sờ gáy, kiểm điểm, kỷ luật, cắt chức và có trường hợp bắt giam vì điều này rồi.
Kết luận:
- Vậy nên, rút kinh nghiệm khi xây dựng kế hoạch dự án hàng năm, thì tính khái toán tổng mức cao lên. Để khi tiến hành lập dự án, tính chi phí dự phòng cho đủ. Đừng ép nó xuống sau này tội vạ gánh chịu thì khốn.
- Không được giảm chi phí dự phòng so với quy định để sau này lỡ phát sinh vượt tổng mức thì không bị dính đòn.
- Về nguyên lý thì vẫn giảm được (nếu không rơi vào trường hợp lách luật: hạ quy mô nhóm dự án), nhưng sẽ bị tâm lý phấm phỏm như đang đánh canh bạc. Vì lỡ khi thực hiện, tổng mức tăng (nếu tính đúng % ban đầu thì không tăng) thì khốn.