Bài học kinh nghiệm về PPP trong lĩnh vực cấp nước tại VN
XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CUNG CẤP NƯỚC SẠCH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TỔNG CÔNG TY CẤP NƯỚC SÀI GÒN: MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ KIẾN NGHỊ 1. Thành phố Hồ Chí Minh là mộttrung tâm kinh tế, văn hóa, du lịch lớn của cả nước, một đầu tàu phát triển toàndiện của phía Nam,là đầu mối giao lưu và cửa ngõ hướng ra thế giới. Hơn hai mươi nămqua, vận hành trong chính sách đổi mới, thành phố đã có những bước phát triển nhanhchóng. Do đó, việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, trong đó có hệ thống cấp nước là mộtnhu cầu quan trọng và bức bách. Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn đangquản lý một hệ thống cấp nước lớn nhất và lâu đời nhất của cả nước, với côngsuất cấp nước hiện nay là 1.350.000m3/ngày,mạng lưới đường ống cấp nước từ Ø100mm đến2.400mm có chiều dài khoảng 3.800km (chưa kể khoảng 3.800km ống nhánh vớikhoảng 760.000 đấu nối khách hàng). Dự kiến đến năm 2025, theo định hướng phát triểncấp nước bền vững, đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng nước sạch, cấp nước ổn định, bảo đảmchất lượng và dịch vụ tốt, với công suất cấp nước sẽ đạt 3,2 triệu m3/ngày, pháttriển thêm 2.775km mạng lưới đường ống, cải tạo, thay thế 993km, phấn đấu giảm tỉ lệ thấtthoát – thất thu còn 25%, đòi hỏi một số vốn đầu tư lên đến gần 4 tỷ USD. Vì vậy, việc tìmkiếm và huy động mọi nguồn lực xã hội, trong và ngoài nước để phát triển hệ thốngcấp nước là một yêu cầu mang tính khách quan và là một trong những giải pháp lớn củaTổng Công Ty Cấp Nước Sài gòn (TCTCNSG) sẽ thực hiện trong 15 năm tới. 1.1. Đối với nhu cầu đầu tư xây dựngcác nhà máy nước mới, các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài hết sức quan tâm.Với chính sách mở cửa, dự án Nhà máy nước Bình An công suất 100.000m3/ngày, nhàmáy nước đầu tiên trong cả nước thực hiện theo hình thức BOT do nhà đầu tư Malaysia thực hiệnđược cấp giấy phép đầu tư tháng 3/1995, khởi công xây dựng năm 1996 và đivào hoạt động tháng 8/1999; cho đến nay nhà máy nước này vẫn hoạt động tốt và cóhiệu quả cho cả nhà đầu tư và TCTCNSG. Nhà máy nước BOO Thủ Đức công suất300.000m3/ngày do Côngty Cổ Phần BOO Nước Thủ Đức đầu tư và bán sỉ toàn bộ sản lượngcho TCTCNSG và Nhà máy nước Kênh Đông do Công ty Cổ Phần Cấp nước Kênh Đôngđầu tư công suất 200.000m3/ngày,bán sỉ cho TCTCNSG 150.000m3/ngày đangtriển khai thực hiện theo hướng xã hội hóa cấp nước. Hiện có rất nhiều nhà đầu tư trongvà ngoài nước tiếp xúc với TCTCNSG để tìm hiểu và mong muốn có cơ hội đầu tư các Nhàmáy nước mới trong tương lai. Cho đến nay, trong cơ cấu nguồn nước sản xuất và cungcấp cho thành phố, ngoài TCTCNSG, các đơn vị thuộc thành phần kinh tế khác chiếmtỉ lệ khoảng 21% và dự kiến đến đầu năm 2011 sẽ tăng lên khoảng 37% (bao gồm Côngty Cấp nước BOT Bình An, Công ty Cổ phần BOO Nước Thủ Đức, Công ty Cổ phần Cấpnước Kênh Đông và một số doanh nghiệp khác). Với khả năng giải quyết được về mặtkỹ thuật công nghệ cấp nước và năng lực thi công, việc đầu tư phát triển các nhà máynước mới hiện nay dễ dàng huy động nguồn vốn trong nước để thực hiện. Vấn đề đặt rasau một thời gian triển khai thực hiện xã hội hóa trong đầu tư cho ngành nước sẽ được trìnhbày ở phần sau. 1.2. Đối với nhu cầu đầu tư pháttriển mạng lưới đường ống cấp nước, đặc biệt là các tuyến ống truyền dẫn và cấp 1,do tính chất đặc thù, cần đầu tư một lần để vận hành khai thác lâu dài đáp ứng nhu cầutiêu thụ nước tăng lên theo từng giai đoạn phát triển sau này, không thể đầu tư chỉ chonhu cầu trước mắt rồi sau này đầu tư tiếp vì không có quỹ đất và vấn đề kỹ thuật cũng sẽcó khó khăn. Vốn đầu tư cho mạng truyền dẫn, cấp 1 là rất lớn, thời gian thu hồi vốnkéo dài do giá nước sạch còn phụ thuộc vào chính sách giá, yếu tố an sinh xã hội, khunggiá nước sạch nhà nước quy định, có quan tâm đến mặt bằng thu nhập của nhiều ngườitrong xã hội. Trong khi đó, mục tiêu của nhà đầu tư là lợi nhuận, khai thác thu hồi vốn nhanhnên cho đến nay chưa có nhà đầu tư thực sự quan tâm. Đầu tư mạng cấp 2 cũng mang tínhchất tương tự mặc dù mức độ có nhẹ hơn. Tình hình đó đặt ra các hướng giảiquyết cho các đơn vị cấp nước là bên cạnh việc đầu tư phát triển mạng lưới đường ốngcấp 3 bằng nguồn vốn của doanh nghiệp hoặc vay tín dụng dài hạn, mạng lưới đường ốngtruyền dẫn, cấp 1 và cấp 2 cần phải được đầu tư bằng các nguồn vốn ngân sách cấpphát, ngân sách cho mượn không lãi suất, tín dụng ưu đãi của Nhà nước hoặc nguồn vốnODA dài hạn hoặc phối hợp các nguồn vốn nói trên mới có thể thực hiện được một cáchcó hiệu quả. 1.3. Đối với đầu tư giảm nước thấtthoát – thất thu, một trong những quan tâm hàng đầu của hoạt động sản xuất vàcung cấp nước của TCTCNSG, mặc dù đã được tập trung nhiều thời gian, công sức vàvốn liếng để giải quyết, nhưng với hệ thống cấp nước có quy mô lớn, hình thành và pháttriển qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, hạ tầng kỹ thuật và trang thiết bị phục vụ côngtác quản lý, kiểm soát mạng lưới cấp nước còn thiếu thốn, chưa đồng bộ, tình hình nướcthất thoát – thất thu vẫn còn cao, hiện chỉ đạt yêu cầu kìm hãm đà gia tăng, kết quả chưacó tính bền vững. Với việc thực hiện giảm nước thấtthoát – thất thu theo cách truyền thống qua việc tổ chức cho các đơn vị tư vấn nghiêncứu khả thi, thiết kế, giám sát, huấn luyện đào tạo; các đơn vị nhà thầu hợp đồng cungcấp vật tư, thi công, thiết lập phân vùng tách mạng, thay thế tuyến ống cũ; đơn vị cấpnước quản lý mạng lưới, dò tìm, sửa bể… đã không mang lại hiệu quả mong muốn hoặchiệu quả thấp, không bền vững. Việc giảm nước thất thoát – thấtthu tuy là công việc thường xuyên nhưng ở đây cần tính chất chuyên nghiệp, lâu dàivà phải được giải quyết thông qua con đường đầu tư để bảo đảm kiểm soát thực hiện cácgiải pháp giảm và duy trì được tỉ lệ giảm nước thất thoát – thất thu và điều này phụthuộc vào các yếu tố vốn đầu tư, con người và cơ chế thực hiện vốn có nhiều khó khăn, hạnchế và bất cập đối với đơn vị cấp nước. Tương tự như đầu tư xây dựng mộtnhà máy nước để tăng thêm sản lượng sản xuất nước sạch, việc giảm nước thấtthoát – thất thu cũng phải được đầu tư để thu hồi lại nước rõ rĩ, tăng lượng nước cung cấpmà không phải xây dựng thêm nhà máy nước mới. Việc đầu tư này được thực hiệntheo một dự án đã có kế hoạch trước nhằm khai thác và phát huy các ưu thế về tính chuyênnghiệp, kinh nghiệm, kỹ thuật chuyên môn; về nguồn tài chính bảo đảm những nguồn lựccần thiết cho đầu tư, vận hành, bão dưỡng đúng mức, quyết định và hành động nhanh chóng,quản lý một cách xuyên suốt, thực hiện nhiệm vụ với mục tiêu đã xác định gắn liềnvới lợi ích kinh tế thu được trực tiếp từ hiệu quả giảm nước rò rỉ. Tuy nhiên, kết quả thựchiện dự án không chỉ là thành công mà có khi thất bại, nghĩa là có yếu tố rủi ro. Kêu gọi đầu tư – nhất là đầu tư nướcngoài trong lĩnh vực giảm nước thất thoát thất thu được đặt ra để một mặt giảiquyết vấn đề nguồn lực, kinh nghiệm, khả năng chuyên môn, đồng thời trên cơ sở đóchia sẻ lợi ích từ hiệu quả cũng như chia sẻ rủi ro từ kết quả thực hiện thu hồi nước ròrỉ. Việc chia sẻ lợi ích từ hiệu quả thu hồi nước rò rỉ vừa là phương tiện vừa là động lựccho cả nhà đầu tư và đơn vị cấp nước trong việc thực hiện các dự án thu hồi nước rò rỉ. Hiện tại, hợp đồng quản lý và giảmrò rỉ dựa trên hiệu quả thực hiện theo hình thức đối tác công - tư (PPP) đang đượcáp dụng cho Dự án Giảm thất thoát nước thành phố Hồ Chí Minh bằng nguồn vốn vaycủa Ngân hàng Thế giới (WB) với nội dung phân chia mạng lưới phân phối nước củathành phố thành 6 vùng, thực hiện giảm nước rò rỉ trong 2 vùng (vùng 1 và vùng 2)trong đó thực hiện hợp đồng PPP tại vùng 1 với một nhà thầu chuyên nghiệp. Mặc dù kết quảthực hiện còn đang ở phía trước, song việc nghiên cứu áp dụng cũng cần được tiếp tụcvà có sự hỗ trợ về hành lang pháp lý để làm căn cứ cho việc tăng cường mối quan hệ giữakhu vực công và khu vực tư ở nước ta hiện nay nói chung. Thời gian gần đây, qua thông tin củaDự án Giảm thất thoát nước Ngân hàng Thế giới và các thông tin khác của cácđịnh chế tài chính quốc tế, một số nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này cũng bắt đầuquan tâm đặt vấn đề hợp tác đầu tư với TCTCNSG để cùng chia sẻ lợi ích cũng như rủiro trong công tác giảm thất thoát nước. 2.Với các hình thức xã hội hoá dịchvụ cấp nước nêu trên tại thành phố trong thời gian qua cho phép rút ra những kếtquả và bài học kinh nghiệm là: - Đối với Nhà máy nước BOT BìnhAn, do một nhà đầu tư chuyên ngành cấp nước thực hiện nên hoạt động thuậnlợi, ổn định, chất lượng nước sạch được bảo đảm, giá mua bán sỉ nước sạch không biến độnggóp phần vào việc tăng cường bổ sung nguồn nước sạch cho thành phố. - Đối với các dự án nhà máy nước đangthực hiện, do các nhà đầu tư không phải trong ngành nước thực hiện nên ngoàiviệc giảm bớt các thủ tục trong việc thực hiện do không sử dụng nguồn vốn Nhà nước,các vấn đề khác khi gặp trở ngại việc xử lý tình huống có khó khăn, hạn chế, khôngchuyên nghiệp, giải quyết chậm, gây bức xúc trong dư luận. Vấn đề được đặt ra là cần có một cơchế linh hoạt cho phép hợp tác đầu tư giữa đơn vị cấp nước trong địa bàn đượcgiao quản lý với nhà đầu tư có năng lực về vốn đầu tư để dự án được thực hiện một cáchnhanh chóng, hạn chế rủi ro, xử lý chuyên nghiệp và phối hợp tốt trong quá trình vận hànhsau khi dự án được đưa vào hoạt động để dự án được thuận lợi và hiệu quả hơn. - Việc xã hội hóa trong đầu tư pháttriển mạng lưới cấp nước, giảm nước thất thoát – thất thu chưa được chú ý đầyđủ do chưa có những cơ chế khuyến khích phù hợp nên chưa thu hút sự quan tâm của cácnhà đầu tư. Giá nước chưa tính đủ, chưa thể gánh nổi gánh nặng chi phí đầu tư lớnhiện tại cho lợi ích trong tương lai. Chính sách tín dụng đối với việc vay vốn đầu tư pháttriển mạng lưới cấp nước còn quá khó khăn, không khuyến khích nhà đầu tư. Các Sở ngànhliên quan chưa chia sẻ khái niệm đầu tư giảm thất thoát nước như là đầu tư pháttriển nguồn nước mà không có Nhà máy nước. Chưa có cơ chế thưởng phù hợp cho việcgiảm thất thoát nước để động viên lực lượng thực hiện công tác đầy khó khăn phức tạpvà nhiều rủi ro này. Hoạt động giảm nước thất thoát thấtthu đang trở thành chủ trương lớn của Nhà nước, kiến nghị xem xét có cơ chếthưởng giảm nước thất thoát thất thu cho đơn vị cấp nước căn cứ lợi ích thiết thực việcthu hồi lượng nước rò rỉ đã mất đi thay vì đầu tư nhà máy nước mới để tăng sản lượngthay thế cho việc tính toán thưởng theo hình thức thưởng tiết kiệm. Việc thực hiện chủ trương xã hội hóacung ứng các dịch vụ công cộng, trong đó có hoạt động cấp nước nhằm thuhút sự tham gia của khu vực ngoài nhà nước, giải quyết vấn đề nguồn lực, kinh nghiệmchuyên môn trong việc cung cấp, phân phối, sử dụng một cách có hiệu quả tài sảndịch vụ của khu vực công mà thông thường do khu vực công đảm trách; Nhà nước cầntiếp tục bổ sung hoàn thiện khung pháp lý (Nghị định số 108/2009/NĐ-CP ngày27/11/2009 về hợp đồng BOT, BTO, BT, chưa có khung pháp lý cho các dạng khác) cầncó cơ chế khuyến khích theo các loại hình phù hợp để khu vực ngoài nhà nước thamgia rộng rãi hơn__ |