I. Nguyên tắc và khái niệm chung:
Trước khi đi vào vấn đề bạn nêu, mình chia sẻ với bạn 1 số nguyên tắc quan trọng sau:
1. Hợp đồng xây dựng là gì:
Hợp đồng xây dựng là hợp đồng dân sự được thỏa thuận bằng văn bản giữa bên giao thầu và bên nhận thầu về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên để thực hiện một, một số hay toàn bộ công việc trong hoạt động xây dựng. Hợp đồng xây dựng được ký kết theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
2. Các bên tham gia hợp đồng xây dựng phải thực hiện đúng nội dung trong hợp đồng về phạm vi công việc, yêu cầu chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác trong hợp đồng. Các bên thực hiện hợp đồng xây dựng phải trung thực, theo tinh thần hợp tác, bảo đảm tin cậy lẫn nhau và đúng pháp luật, không được xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
3. Thanh toán hợp đồng xây dựng
Tại Điều 18, Nghị định số 48/2010/NĐ-CP ngày 07/05/2010 của Chính phủ về hợp đồng trong hoạt động xây dựng quy định việc thanh toán như sau: Việc thanh toán hợp đồng xây dựng phải phù hợp với loại hợp đồng, giá hợp đồng và các điều kiện trong hợp đồng mà các bên đã ký kết. Các bên thỏa thuận trong hợp đồng về số lần thanh toán, giai đoạn thanh toán, thời điểm thanh toán, thời hạn thanh toán, hồ sơ thanh toán và điều kiện thanh toán. Bên giao thầu phải thanh toán đầy đủ (100%) giá trị của từng lần thanh toán cho bên nhận thầu sau khi đã giảm trừ tiền tạm ứng, tiền bảo hành công trình theo thỏa thuận trong hợp đồng, trừ trường hợp các bên có quy định khác. Thời hạn thanh toán do các bên thỏa thuận nhưng không quá 14 ngày làm việc kể từ ngày bên giao thầu nhận đủ hồ sơ thanh toán hợp lệ theo thỏa thuận trong hợp đồng và được quy định cụ thể như sau: - Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị thanh toán hợp lệ của bên nhận thầu, chủ đầu tư phải hoàn thành các thủ tục và chuyển đề nghị thanh toán tới cơ quan cấp phát, cho vay vốn; - Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ thanh toán hợp lệ của chủ đầu tư, cơ quan cấp phát, cho vay vốn phải chuyển đủ giá trị của lần thanh toán cho bên nhận thầu.
4. Quyết toán hợp đồng xây dựng: Tại Điều 21 Nghị định 48/2010/NĐ-CP quy định: Quyết toán hợp đồng là việc xác định tổng giá trị cuối cùng của hợp đồng xây dựng mà bên giao thầu có trách nhiệm thanh toán cho bên nhận thầu khi bên nhận thầu hoàn thành tất cả các công việc theo thỏa thuận trong hợp đồng. Hồ sơ quyết toán hợp đồng do bên nhận thầu lập phù hợp với từng loại hợp đồng và giá hợp đồng. Nội dung của hồ sơ quyết toán hợp đồng xây dựng phải phù hợp với các thỏa thuận trong hợp đồng, bao gồm các tài liệu sau: - Biên bản nghiệm thu hoàn thành toàn bộ công việc thuộc phạm vi hợp đồng; - Bản xác nhận giá trị khối lượng công việc phát sinh (nếu có) ngoài phạm vi hợp đồng; - Bảng tính giá trị quyết toán hợp đồng xây dựng (gọi là quyết toán A-B), trong đó nêu rõ phần đã thanh toán và giá trị còn lại mà bên giao thầu có trách nhiệm thanh toán cho bên nhận thầu; - Hồ sơ hoàn công, nhật ký thi công xây dựng công trình đối với hợp đồng có công việc thi công xây dựng; - Các tài liệu khác theo thỏa thuận trong hợp đồng. - Thời hạn giao nộp hồ sơ quyết toán hợp đồng do các bên thỏa thuận nhưng không được quá 60 ngày kể từ ngày nghiệm thu hoàn thành toàn bộ nội dung công việc cần thực hiện theo hợp đồng, bao gồm cả công việc phát sinh (nếu có); trường hợp hợp đồng có quy mô lớn thì được phép kéo dài thời hạn giao nộp hồ sơ quyết toán hợp đồng nhưng không quá 120 ngày. Trường hợp hai bên không đạt được thỏa thuận, việc giải quyết tranh chấp được thực hiện thông qua hòa giải, Trọng tài hoặc Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Thời hạn đề nghị Trọng tài hoặc thời hiệu khởi kiện lên Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng là 2 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp các bên bị xâm phạm.
a. Điều 2: Vốn đầu tư được quyết toán là toàn bộ chi phí hợp pháp đã thực hiện trong quá trình đầu tư để đưa dự án vào khai thác sử dụng. Chi phí hợp pháp là chi phí được thực hiện trong phạm vi thiết kế, dự toán đã phê duyệt kể cả phần điều chỉnh, bổ sung, đúng với hợp đồng đã ký kết, phù hợp với các quy định của pháp luật. Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước thì vốn đầu tư được quyết toán phải nằm trong giới hạn tổng mức đầu tư được duyệt (hoặc được điều chỉnh) theo quyết định của cấp có thẩm quyền phê duyệt. b. Điều 5. Đối với các dự án có nhiều hạng mục công trình, tùy theo quy mô, tính chất và thời hạn xây dựng công trình, chủ đầu tư có thể thực hiện quyết toán, thẩm tra và phê duyệt quyết toán vốn đầu tư xây dựng cho từng hạng mục công trình hoặc từng gói thầu độc lập ngay sau khi hạng mục công trình, gói thầu độc lập hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng theo yêu cầu của người quyết định đầu tư. Giá trị đề nghị quyết toán của hạng mục công trình bao gồm: chi phí xây dựng, chi phí mua sắm và lắp đặt thiết bị, các khoản chi phí khác có liên quan trực tiếp đến hạng mục đó. Sau khi toàn bộ dự án hoàn thành, chủ đầu tư tổng quyết toán toàn bộ dự án và xác định mức phân bổ chi phí chung của dự án cho từng hạng mục công trình thuộc dự án trình người có thẩm quyền phê duyệt; không thẩm tra lại đối với các hạng mục công trình, gói thầu độc lập đã được thẩm tra và phê duyệt theo quy định.
II. TRở về lại nội dung topic nêu: với các thông tin chia sẻ ở trên, các bạn sẽ nhận ra 1 điều rất rõ: - Quyết toán hợp đồng xây dựng là khác hoàn toàn với quyết toán dự án hoàn thành. Tức về khÁi niệm, sẽ phân định rõ: quyết toán hợp đồng hoặc là quyết toán dự án hoàn thành. Theo thông tin topic cũng cấp, thì hợp đồng chỉ ghi 1 từ "Quyết toán được duyệt". Vậy hiểu là "quyết toán hợp đồng" hay "quyết toán dự án hoàn thành"? - Nếu hiểu là quyết toán dự án hoàn thành thì nhà thầu chết toi. Bởi quyết toán dự án là phụ thuộc vào ý chí chủ quan của CĐT, nhà thầu không hay, không biết. Có những dự án sau cả 10 năm chủ đầu tư vẫn chưa quyết toán được dự án hoàn thành, vậy nhà thầu đợi cả 10 năm mới được nhận tiền còn lại sao? Điều này là phi lý, bất công bằng và chẳng có nhà thầu nào chịu cả. Trong khi đó, quyết toán hợp đồng là có sự tương tác giữa Người mua (CĐT) và người bán (Nhà thầu) nên chỉ cần sản phẩm công trình làm xong, được 2 bên nghiệm thu đúng yêu cầu là tiền phải được trả.
==> Nhận định: - Lỗi này là xuất phát từ phía người làm hợp đồng ban đầu câu chữ không rõ ràng (xem lai có định nghĩa trong hợp đồng đã ký k?), đúng ra phải có định nghĩa hoặc dùng từ chuẩn theo NĐ 48 là "Quyết toán HỢP ĐỒNG". Còn 2 từ "phê duyệt" thì ở đây cũng không vấn đề gì nếu được hiểu rằng nó được do 2 bên A-B phê duyệt. - Vậy nên, câu từ thiếu thì cách giải quyết của CĐT nên làm là: không nên bắt bí nhà thầu, làm vậy là vô nhân đạo. Bởi tuy câu từ "Quyết toán được duyệt" có thể được hiểu theo 2 nghĩa: quyết toán hợp đồng, hoặc quyết toán dự án hoàn thành. Nhưng rõ ràng theo thông lệ, và theo cách hiểu thông thường mối liên hệ hợp đồng (chỉ có A-B, không cần biết kiểm toán hay thanh tra hay gì gì..), người bán hàng (nhà thầu) chỉ biết "tiền trao, cháo múc" ngay khi Người mua chấp nhận thì nên hiểu đó là QUYẾT TOÁN HỢP ĐỒNG là hoàn toàn phù hợp.
|